|
37.
Miếng trầu là đầu câu chuyện
Theo phong tục Việt Nam,
miếng trầu tuy rẻ tiền nhưng chứa đựng nhiều t́nh cảm ư nghĩa, giàu
nghèo ai cũng có thể có, vùng nào cũng có. Miếng trầu đi đôi với lời
chào, người lịch sự không ăn trầu cách mặt nghĩa là đă tiếp th́ tiếp cho
khắp:
Tiện đây ăn một miếng trầu
Hỏi rằng quê quán ở đâu chăng là
"Đầu tṛ tiếp khách"
là trầu, ngày xưa ai mà chẳng có, hoạ chăng riêng Tú Xương mới "Bác đến
chơi nhà ta với ta"
Quí nhau mời trầu, ghét nhau theo phép lịch sự cũng mời nhau
ăn trầu nhưng "cau sáu ra thành mười".
Đặc biệt "trầu là đầu câu chuyện" giao duyên giữa đôi trai
gái:
"Lân la điếu thuốc miếng trầu, đường ăn ở dễ chiều ḷng bạn lứa".
- Trầu vàng nhá lẫn
trầu xanh
Duyên em sánh với t́nh anh tuyệt vời.
Mời trầu không ăn th́ trách
móc nhau:
- Đi đâu cho đổ mồ
hôi
Chiếu trải không ngồi trầu để không ăn.
- Thưa rằng bác mẹ tôi răn
Làm thân con gái chớ ăn trầu người.
Khi đă quen hơi bén
tiếng, trai gái cũng mượn miếng trầu để tỏ t́nh, nhất là các chàng trai
nhờ miếng trầu mà tán tỉnh:
- Từ ngày ăn phải
miếng trầu
Miệng ăn môi đỏ dạ sầu đăm chiêu.
- Một thương, hai nhớ, ba sầu
Cơm ăn chẳng được, ăn trầu cầm hơi.
"Có trầu, có vỏ, không
vôi" th́ môi không thể nào đỏ được, chẳng khác ǵ "có chăn, có chiếu
không người năm chung".
- Cho anh một miếng
trầu vàng
Mai sau anh trả cho nàng đôi mâm.
- Yêu nhau chẳng lấy được nhau
Con lợn bỏ đói, buồng cau bỏ già.
Miếng trầu không đắt đỏ
ǵ "ba đồng một mớ trầu cay" nhưng "miếng trầu nên dâu nhà người".
Ngày nay để răng trắng nhiều người không biết ăn trầu nữa,
nhất là ở thành phố, nhưng theo tục lệ nhà ai có con gái gả chồng, sau
khi ăn hỏi xong cũng đem cau trầu cau biếu hàng xóm và bà con nội ngoại.
V́ miếng trầu là tục lệ, là t́nh cảm nên ăn được hay không cũng chẳng ai
chối từ
Thời xưa, ăn trầu c̣n sợ bị bỏ "bùa mê", "bùa yêu" nên người
ta có thói quen:
- Ăn trầu th́ mở
trầu ra
Một là thuốc độc hai là mặn vôi.
Các cụ càng già càng
nghiện trầu, nhưng không c̣n răng nên "đi đâu chỉ những cối cùng chày"
(Nguyễn Khuyến). Cối chày giă trầu làm bằng đồng, chỉ bỏ vừa miếng cau,
miếng trầu, miếng vỏ nhưng trạm trổ rất công phu, ngày nay không c̣n
thấy có trên thị trường nên các cụ quá phải nhở con cháu nhá hộ.
V́ trầu cau là "đầu tṛ tiếp khách" lại là biểu tượng cho sự
tôn kính, phổ biến dùng trong các lễ tế thần, tế gia tiên, lễ tang, lễ
cưới, lễ thọ, lễ mừng... Nên têm trầu cũng đ̣i hỏi phải có mỹ thuật,
nhất là lễ cưới có trầu têm cánh phượng có cau vỏ trổ hoa, "cau già dao
sắc" th́ ngon. Bày trầu trên đĩa, hạt cau phải sóng hàng, trầu vào giữa,
đĩa trầu bày 5 miếng hoặc 10 miếng, khi đưa mời khách phải bưng hai tay.
Tế gia tiên th́ trầu têm, c̣n tế lễ thiên thần th́ phải 3 là trầu phết
một tí vôi trên ngọn lá và 3 quả cau để nguyên . |