|
49. Bàn
thờ vọng là ǵ? Cách lập bàn thờ vọng
Bàn thờ vọng ngày nay khá phổ biến, áp
dụng cho con cháu sống xa quê, hướng vọng về quê, thờ cha mẹ ông bà tổ
tiên, hương khói trong những ngày giỗ, tết. Ngày xưa, với nền kinh tế
nông nghiệp tự cung, tự cấp, người nông dân suốt đời không rời quê cha
đất tổ, chuyển cư sang làng bên cạnh cũng đă gọi là biệt quán, ly hương,
v́ vậy bàn thờ vọng chỉ là hiện tượng cá biệt và tạm thời, chưa thành
phong tục phổ biến.
"Vọng bái ", nghĩa là vái lạy từ xa.
Ngày xưa, khi triều đ́nh có những điển lễ lớn, các quan trong triều tập
trung trước sân rồng làm lễ, các quan ở các tỉnh hoặc nơi biên ải, thiết
lập hương án trước sân công đường, thắp hương, nến, hướng về kinh đô quỳ
lạy Thiên tử. Khi nghe tin cha mẹ hoặc ông bà mất, con cháu chưa kịp về
quê chịu tang, cũng thiết lập hương án ngoài sân, hướng về quê làm lễ
tương tự. Các bàn thờ thiết lập như vậy chỉ có tính chất tạm thời, sau
đó con cáo quan xin về cư tang ba năm (xem bài Lễ Cư tang). Các thiện
nam tín nữ hàng năm đi trẩy hội đền thờ Đức Thánh Trần ở Vạn Kiếp, đức
Thánh Mẫu ở Đền Ṣng v.v... dần dần về sau, đường sá xa xôi, cách trở,
đi lại khó khăn, cũng lập bàn thờ vọng như vậy. Nơi có nhiều tín đồ tập
trung, dần dần h́nh thành tổ chức. Các thiện nam tín nữ quyên góp nhau
cùng xây dựng tại chỗ một đền thờ khác, rồi cử người đến bàn thờ chính
xin bát hương về thờ. những đền thờ đó gọi là vọng từ (thí dụ ở số nhà
35 phố Tôn Đức Thắng Hà Nội có "Sùng Sơn vọng từ" nghĩa là Đền thờ vọng
của núi Ṣng, thờ thánh Mẫu Liễu Hạnh).
Bàn thờ vọng ông bà cha mẹ chỉ được tập
trung trong trường hợp sống xa quê. Những người con thứ, bất cứ giàu
nghèo, sang hèn thế nào, nếu ở gần cánh cửa trưởng trên đất tổ phụ lưu
lại, th́ đến ngày giỗ, ngày tết, con thứ phải có phận sự hoặc góp lễ,
hoặc đưa lễ đến nhà thờ hay nhà con truởng làm lễ, cho dù cửa trưởng chỉ
thuộc hàng cháu, th́ chú hoặc ông chú vẫn phải thờ cúng ông bà tại nhà
cửa trưởng. Do đó không có lệ lập bàn thờ vọng đối cửa thứ ngay ở quê
nhà. Nếu cửa trưởng khuyết hoặc xa quê, th́ người con thứ 2 thế trưởng
được lập bàn thờ chính, c̣n bàn thờ ở nhà người anh cả ở xa quê lại là
bàn thờ vọng.
Phong tục rất hay và rất có ư nghĩa. Bởi
lẽ chữ Hiếu đi đôi với chữ Đệ. Khi sống cũng như đă mất, ông bà cha mẹ
bao giờ cũng mong muốn anh chị em sống ḥa thuận, một nhà đầm ấm. Thỉnh
vong hồn về cầu cúng lễ bái, mà anh chị em ở gần nhau không sum họp, mỗi
người cúng một nơi, th́ đó là mầm mống của sự bất hoà, vong hồn làm sao
mà thanh thản được.
Cách lập bàn thờ vọng:
Chưa phải là phong tục cổ truyền, chưa
có nghi lễ nhất định, mà chỉ là kinh nghiệm truyền cho nhau khoảng đầu
thế kỷ lại nay tuỳ hoàn cảnh thuận tiện mà vận dụng: Khi bắt đầu lập bàn
thờ vọng phải về quê chính báo cáo gia tiên tại bàn thờ chính. Sau đó
xin phép chuyển một lư hương phụ hoặc mấy nén hương đang cháy giở mang
đến bàn thờ vọng rồi thắp tiếp. Nếu có nhà riêng, tương đối rộng răi
khang trang, th́ bàn thờ đặt hẳn một pḥng riêng chuyên để thờ cúng cho
tôn nghiêm, hoặc kết hợp đặt ở pḥng khách, nhưng cao hơn chỗ tiếp khách.
Nếu đặt bàn thờ gia thần riêng, th́ phải đặt thấp hơn bàn thờ gia thần
một ít. Đặt hướng nào? - Hướng về quê chính, để khi người gia trưởng
thắp hương vái lạy thuận hướng vái lạy về quê. Thí dụ người quê miền
Trung sống ở Hà Nội th́ đặt bàn thờ vọng phía Nam căn pḥng hay ngoài
sân, ngoài hiên. Không nên đặt bàn thờ trong buồng ngủ, trừ trường hợp
nhà chật hẹp quá th́ phải chịu. Không nên đặt cạnh chỗ uế tạp, hoặc cạnh
lối đi. Đối với những gia đ́nh ở khu tập thể nhà tầng, nếu câu nệ quá
th́ không c̣n chỗ nào đặt được bàn thờ. Những người sống tập thể, chỉ
đặt một lọ cắm hương đầu giường nằm của ḿnh cũng đủ, miễn là có ḷng
thành kính, chẳng cần phải câu nệ hướng nào, cao thấp rộng hẹp ra sao. |