36. Đạo thầy tṛ

    Quan hệ thầy tṛ nói riêng về mặt phong tục cũng cần có một tập sách rêng. Để trả lời cho những câu hỏi về đạo thầy tṛ, chúng tôi thiết nghĩ mấy ḍng sơ lược th́ chưa thể nào nói cho hết được.

    Dân tộc ta vốn tôn sư trọng đạo, dưới chính thể nào cũng vậy. Vai tṛ thầy giáo luôn luôn tiêu biểu cho tầng lớp trí thức, tiên tiến được toàn thể xă hội công nhận. Nghề giáo vốn là nghề cao quí nhất. Nền giáo dục thời phong kiến cũng như thời dân chủ đều thống nhất một phương châm "tiên học lễ hậu học văn" "nhà trường gắn liền với gia đ́nh và xă hội"... Nhân tài phục vụ xă hội, điều hành bộ máy Nhà nước đều được "ông thầy", tức là khuôn mẫu, đào tạo nên, "không thầy đố mày làm nên". Tiêu chuẩn đánh giá kiến thức đều thống nhất dựa vào chế độ thi cử, có học vị, cấp bậc rơ ràng.

    V́ tất cả những lẽ trên, có người đặt vấn đề: Vậy đặt thầy cao hơn cha có quá đáng không?

    Cha mẹ sinh ra, nuôi dưỡng ḿnh, thầy giáo là người truyền thụ kiến thức cho ḿnh. Sở dĩ hiển đạt, thi thô được tài năng với đời đều nhờ thầy. Ngày xưa, từ nhỏ đến khi đi thi đậu cử nhân, tiên sĩ thường cũng chỉ học một thầy cùng lắm là vài ba thầy, chứ không như ngày nay mỗi năm một lớp rồi mỗi môn một thầy. Ngày xưa có nhiều trường hợp thầy tṛ cùng lều chóng đi thi nhưng học tài thi phận , tṛ đậu thầy hỏng. Có những ông thầy đào tạo được nhiều ông Nghè, ông Cống nhưng bản thân ông thầỳ lại chẳng đậu đạt ǵ, chẳng nhận quan tước ǵ, có người thi đậu cũng không ra làm quan mà chỉ tiếp tục dạy học. Có những thầy giáo đạo cao đức trọng được môn sinh nể trọng hơn cha. Thầy Chu Văn An là người thầy tiêu biểu nhất được liệt thờ ở Văn Miếu.

    Ngày xưa, thầy đồ dạy đỗ được một số học sinh đậu đạt cử nhân, tiến sĩ th́ tự nhiên vai vế trong xă hội được nâng lên rơ rệt, quan tỉnh quan huyện cũng phải kính nể, chẳng những đối với thầy giáo mà cả gia đ́nh thầy. Quang Trung ba lần mời Nguyễn Thiếp (La Sơn Phu Tử) ra làm quân sư, chính là để thu phục nhân sĩ Bắc Hà, v́ Nguyễn Thiếp là thầy giáo của nhiều triều thần Lê Trịnh đương thời.

    Ngành giáo dục tuy có chế độ thi hương, thi hội, thi đ́nh rất nghiêm rất chặt, song rất ít giáo chức rất ít trường công, ở cấp huyện , cấp phủ chỉ có một vài huấn đạo giáo thụ ăn lương nhà nước, hầu hết là các lớp tư thục. Một nhà khá giả trong vùng nuôi thầy cho con ăn học , xóm làng chung quanh gửi ôn đến thụ giáo không phải nộp học phí, chỉ đến ngày mồng 5 tháng 5 ngày Tết... cha mẹ học tṛ mới đưa lễ tết đến tết thầy tuỳ tâm. Giàu có th́ thúng gạo nếp, bộ quần áo...Nghèo th́ một cơi trầu một be rượu cũng xong.

    Môn sinh của một thầy thường tổ chức nhau lại gọi là Hội đồng môn, có trưởng tràng, giám tràng và một số cán tràng giúp việc trưởng tràng. Con thầy mặc dầu ít tuổi hơn cũng được gọi là thế huynh. Thầy nào có tiếng dạy giỏi, dạy nghiêm th́ được nhiều sĩ tử đến theo học , Hội đồng môn vận động các gia đ́nh môn sinh đóng góp tiền của tạo ruộng, tạo trâu ḅ rồi phân công cày cấy, đến mùa màng gặt tự gánh về gia đ́nh nhà thầy để gia đ́nh thầy chi dụng. Khi thầy mất lại dùng rụông đó lo tang ma cho thầy, cho vợ thầy và giỗ tết tế tự về sau.

    Học tṛ để tang thầy cũng ba năm như tang cha mẹ, nhưng không mặc tang phục, gọi là tâm tang tức là để tang trong ḷng.

Cụ Thượng Niên về lễ tang vợ thầy:

    Nguyễn Khắc Niên (1889-1954) người Sơn Hoà, Hương Sơn, Hà Tĩnh đậu Đệ nhị giáp Tiến sĩ (tức Hoàng Giáp) khoa Đinh Mùi 1907 làm Thượng thư bộ Cải lương hương chính triều  Bảo Đại. Nguyễn Khắc Niên là học tṛ cụ Nguyễn Duy Dư người Sơn Tiến, một người nổi tiếng hay chữ ở huyện  Hương Sơn, đă được hội Tư văn hàng huyện tôn xưng là "Hương Sơn tứ hổ". Nguyễn Khăc Niên thụ giáo cụ Dư ở cách nhà ḿnh trên 4 km. Đến kỳ thi Hương hai thầy tṛ cùng lều chơng đi thi, học tṛ đậu cử nhân, được vào Huế thi Hội đậu luôn Hoàng giáp, thầy chỉ đậu Tú tài. Theo chế độ thi cử thời trước: Cử nhân mới được dự thi Hội, c̣n  Tú tài th́ phải 3 khoa Tú tài mới được thi. Ba năm mới có một khoa, thầy Tú chưa kịp chờ để thi lại khoa sau th́ đă từ trần- 1909. Hơn 30 năm sau, bà Tú Dư mất, lúc đó Nguyễn Khăc Niên đă lên đến chức Thượng thu trong triều. Nghe tin vợ thầy học cũ mất, ông đánh xe từ Huế về Hà Tĩnh để phúng viếng. Nhà cách sông và đường quốc lộ, Tri huyện tiếp điện đă lệnh cho Tổng lư địa phương đem kiệu và vơng lọng ra tận bờ sông đón rước cụ thượng về quê lễ vợ thầy. Nhà ông bà Tú trên đỉnh đồi Sơn Trại, người trai tráng leo lên cũng cảm thấy mệt, hơn nữa sỏi đá lởm chởm. Nhưng để tỏ ḷng cung kính nhớ ơn thầy, cụ thương Niên đă xuống cáng, đi chân đất có hai người lính hầu d́u hai bên, lên tận nhà thầy gần đỉnh đồi . Tất nhiên cụ Thượng thư đă đi chân đất th́ từ tuần phủ tri huyện đến tổng lư cũng phải tháo hia hài cắp nách mà leo lên. Người con trưởng cụ Tú và một số gia nân khăn áo chỉnh tề đă xếp hàng đứng ở cổng. Mặc dầu chỉ là dân thường ít hơn một vài tuổi, nhưng con trai cụ Tú cũng được Cụ Thượng Niên vái chào rất cung kính (v́ được coi là thế huynh).

    Học tṛ cũ mà thầy lại mất từ lâu, nay về lễ tang vợ thầy, đây là chuyện thực mắt thấy tai nghe, kể lại dẫu có lỗi thời, nhưng cũng hy vọng các bạn đọc chắt lọc được trong phong tục xưa chút hương vị ngọt ngào chăng ?